ELTS THƯ ĐẶNG- TRUNG TÂM LUYỆN THI IELTS UY TÍN, CHẤT LƯỢNG TẠI HÀ NỘI
Tham khảo các bài liên quan:
>>> Kinh nghiệm luyện thi IELTS
>>> Hướng dẫn làm bài thi IELTS
Chào các bạn thân mến!
Simon là một thầy giáo dạy IELTS rất nổi tiếng trên thế giới. Thầy là một cựu examiner, và hiện nay thầy đang có một website rất hữu ích về việc học và luyện IELTS: ielts-simon.com
Thầy Simon luôn được biết đến với phong cách đơn giản và hiệu quả. Những bài essays thầy viết mẫu đều tương đối đơn giản, nhưng lại cực kỳ xuất sắc và đều đạt mức band điểm 9.0. Dưới đây là tổng hợp các bài essays mẫu của thầy Simon cho Task 2. Các bạn nên đọc và phân tích kỹ từng bài viết này để học được cách viết sao cho đơn giản, mạch lạc và kiếm được điểm cao nhất.
PHẦN 3
12. 'positive or negative' essay
Bài luận về chủ đề ‘'tích cực hay tiêu cực'’
Here's my full essay for the 'positive or negative development' question that we've been LOOKING AT over the last few weeks. Đây là trọn vẹn bài viết của tôi về vấn đề ‘' sự phát triển tích cực hay tiêu cực’' mà chúng ta đã được KIỂM TRA các đây vài tuần.
In some countries, many more people are choosing to live alone nowadays than in the past. Do you think this is a positive or negative development? Ở một số quốc gia, so với trước kia thì ngày càng có nhiều người lựa chọn sống một mình. Bạn cho rằng đây là một xu hướng phát triển tích cực hay tiêu cực?
In recent years it has BECOME FAR MORE NORMAL for people to live alone, particularly in large cities in the DEVELOPED WORLD. IN MY OPINION, this trend could have both positive and negative consequences IN EQUAL MEASURE. Trong những năm gần đây, khuynh hướng này đã TRỞ NÊN PHỔ BIẾN hơn nhiều, đặc biệt tại các thành phố lớn ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN. THEO TÔI, xu hướng này vừa có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
The rise in ONE-PERSON HOUSEHOLDS can be seen as positive for both personal and broader economic reasons. On an individual level, people to choose to live alone may become more independent and self-reliant than those who live with family members. A young adult who lives alone, for example, will need to learn to cook, clean, pay bills and MANAGE HIS OR HER BUDGE, all of which are VALUABLE LIFE SKILLS; an increase in the number of such individuals can certainly be seen as a positive development. FROM AN ECONOMIC PERSPECTIVE, the trend towards living alone will RESULT IN greater demand for housing. This is likely TO BENEFIT the construction industry, estate agents and a whole host of other companies that RELY ON homeowners to buy their products or services. Sự gia tăng về HỘ GIA ĐÌNH MỘT NGƯỜI có thể được coi là tích cực vì những tác động của nó đối với cá nhân và kinh tế xã hội. Xét ở cấp độ cá nhân, những người lựa chọn sống một mình thường độc lập và tự lực hơn so với những người sống cùng với các thành viên khác trong gia đình. Ví dụ như một thanh niên trẻ tuổi sống một mình sẽ phải học cách nấu ăn, cách vệ sinh sạch sẽ, cách CHI TRẢ CÁC HÓA ĐƠN và tự quản lý những chi tiêu của họ, tất cả đều là NHỮNG KỸ NĂNG SỐNG CÓ GIÁ TRỊ; sự gia tăng số lượng các đối tượng như vậy chắc chắn có thể được coi là một sự phát triển tích cực. XÉT Ở GÓC ĐỘ KINH TẾ, xu hướng sống một mình sẽ DẪN ĐẾN nhu cầu nhà ở lớn hơn. Điều này có thể MANG LẠI LỢI ÍCH CHO ngành xây dựng, đại lý bất động sản và những công ty khác DỰA VÀO chủ nhà như 1 đối tương tiếp thị để mua sản phẩm hoặc dịch vụ của họ.
However, the personal and economic arguments given above can be considered from THE OPPOSITE ANGLE. Firstly, RATHER THAN the positive feeling of increased independence, people who live alone may EXPERIENCE FEELINGS OF LONELINESS, isolation, and worry. They MISS OUT on THE EMOTIONAL SUPPORT and daily conversation that family or flatmates can provide, and they must BEAR THE WEIGHT OF all household bills and responsibilities; IN THIS SENSE, perhaps THE TREND TOWARDS living alone is a negative one. Secondly, from the financial POINT OF VIEW, a rise in demand for housing is likely TO PUSH UP property prices and rents. While this may benefit some businesses, THE GENERAL POPULATION, including those who live alone, will BE FACED WITH rising living costs. Tuy nhiên, các lý do tích cực nêu trên lại có thể được nhìn nhận theo MỘT KHÍA CẠNH KHÁC. Đầu tiên, THAY VÌ cảm giác độc lập, những người sống một mình có thể CẢM THẤY CÔ ĐƠN, cô lập, và lo lắng. Họ KHÔNG CÓ sự hỗ trợ tinh thần và những cuộc trò chuyện hàng ngày mà gia đình hay những người bạn cùng phòng mang lại, cùng với đó họ còn phải GÁNH VÁC toàn bộ những chi trả và trách nhiệm cho căn hộ của họ; NHÌN NHẬN THEO HƯỚNG NÀY, có lẽ xu hướng sống một mình lại là một điều tiêu cực. Thứ hai, xét TỪ KHÍA CẠNH tài chính, nhu cầu về nhà ở tăng có thể khiến giá bất động sản và giá thuê nhà bị đẩy lên. Mặc dù điều này có lợi cho một số doanh nghiệp, nhưng với ĐẠI ĐA SỐ NGƯỜI DÂN, bao gồm cả những người sống một mình, sẽ PHẢI ĐỐI MẶT VỚI sự gia tăng trong chi phí sinh hoạt.
In conclusion, the increase in one-person households will have both BENEFICIAL AND DETRIMENTAL EFFECTS on individuals and on the economy. Kết luận, sự gia tăng về các hộ gia đình một người sẽ có cả NHỮNG ẢNH HƯỞNG CÓ LỢI VÀ BẤT LỢI đối với các cá nhân nói riêng và nền kinh tế xã hội nói chung.
Dịch bởi Dong Xuan Mai |
13 'positive or negative' essay 2
Some universities now offer their courses on the Internet so that people can study online. Is this a positive or negative development? Hiện nay, một số trường đại học cung cấp các khóa học thông qua Internet để người học có thể tham gia trực tuyến. Đây là một sự phát triển có ý nghĩa tiêu cực hay tích cực? It is true that online courses are becoming a common feature of university education. Although there are some drawbacks of Internet-based learning, I would argue that there are far more benefits. Có một thực tế là các khóa học trực tuyến đang trở thành một đặc điểm phổ biến ở giáo dục đại học. Mặc dù có một vài hạn chế trong việc học qua Internet, tôi cho rằng điều này mang lại nhiều lợi ích hơn cả. The main drawback of the trend towards online university courses is that there is less direct interaction. Students may not have the opportunity to engage face-to-face with their teachers, and will instead have to rely on written forms of communication. Similarly, students who study online do not come into direct contact with each other, and this could have a negative impact on peer support, discussion and exchange of ideas. For example, whereas students on traditional courses can attend seminars and even discuss their subjects over coffee after lessons, online learners are restricted to chatting through website forum areas. These learners may also lack the motivation and element of competition that face-to-face group work brings. Hạn chế lớn nhất đối với xu hướng đào tạo trực tuyến ở đại học là sự tương tác trực tiếp sẽ ít hơn. Học viên có thể sẽ không có cơ hội tham gia mặt đối mặt với giáo viên của họ, và thay vào đó sẽ phải phụ thuộc vào việc giao tiếp qua các hình thức văn bản. Tương tự, người học trực tuyến không có sự giao tiếp trực diện với nhau, và điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đối với việc trao đổi các ý tưởng, thảo luận và hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ, trong khi học viên các khóa học truyền thống có thể tham dự các hội nghị chuyên đề và thậm chí thảo luận các môn học trong lúc uống cà phê sau khi kết thúc bài giảng, người học trực tuyến bị giới hạn cuộc trò chuyện qua các diễn đàn web. Họ cũng có thể thiếu đi động lực và môi trường cạnh tranh – những điều mà lớp học trực tiếp mang lại. Despite the negatives mentioned above, I believe that online university courses are a positive development for various reasons. Firstly, they allow learners to study in a flexible way, meaning that they can work whenever and wherever is convenient, and they can cover the material at their own pace. Secondly, the cost of a university education can be greatly reduced, while revenues for institutions may increase as more students can be taught. Finally, online learning offers open access to anybody who is willing to study, regardless of age, location, ability and background. For example, my uncle, who is 65 years old, has recently enrolled on an online MBA course in a different country, which would have been impossible in the days before Internet-based education. Mặc dù có những tiêu cực đã được đề cập phía trên, tôi tin rằng đào tạo đại học trực tuyến là một sự phát triển tích cực bởi nhiều lý do khác nhau. Trước hết, chúng cho phép người học linh hoạt, có nghĩa là họ có thể học bất cứ khi nào và ở đâu thuận tiện, và họ có thể điều chỉnh nội dung học theo nhịp độ của riêng mình. Thứ hai, chi phí học đại học có thể được giảm xuống một cách đáng kể, trong khi đó thu nhập của các tổ chức giáo dục có thể tăng lên bởi số học sinh tham gia nhiều hơn. Cuối cùng, việc cung cấp các khóa học trực tuyến mở ra cơ hội cho bất cứ ai muốn học, bất kể tuổi tác, vị trí địa lý, năng lực hay hoàn cảnh. Ví dụ, bác tôi 65 tuổi, gần đây đã đăng kí học khóa thạc sĩ quản trị kinh doanh trực tuyến ở một quốc gia khác, điều mà đáng lẽ là không thể trước khi có giáo dục qua mạng. In conclusion, while I recognise the possible disadvantages of online learning, I consider it to be a positive development overall. Tóm lại, trong khi thừa nhận những bất lợi có thể có của việc học trực tuyến, nhìn chung, tôi vẫn cho rằng đó là một sự phát triển tích cực. Dịch bởi Đỗ Thị Hương |
14. 'happiness' essay
Happiness is considered very important in life. Why is it difficult to define? What factors are important in achieving happiness? Hạnh phúc được coi là rất quan trọng trong cuộc sống. Vậy tại sao nó lại khó định nghĩa? Những yếu tố nào là quan trọng trong việc đạt được hạnh phúc? It is no doubt true that the majority of people would like to be happy in their lives. While the personal nature of happiness makes it difficult to describe, there do seem to be some common needs that we all share with regard to experiencing or achieving happiness. Không có nghi ngờ gì là sự thật rằng đa số mọi người đều muốn hạnh phúc trong cuộc sống của họ. Trong khi quan niệm về hạnh phúc của mỗi cá nhân làm nó thật khó để miêu tả, đó dường như là những nhu cầu thông thường như việc chúng ta muốn chia sẻ tất cả những gì liên quan đến trải nghiệm hoặc đạt được hạnh phúc. Happiness is difficult to define because it means something different to each individual person. Nobody can fully understand or experience another person’s feelings, and we all have our own particular passions from which we take pleasure. Some people, for example, derive a sense of satisfaction from earning money or achieving success, whereas for others, health and family are much more important. At the same time, a range of other feelings, from excitement to peacefulness, may be associated with the idea of happiness, and the same person may therefore feel happy in a variety of different ways. Hạnh phúc khó để xác định bởi lẽ nó có ý nghĩa khác nhau với mỗi cá nhân. Không ai có thể hoàn toàn hiểu hoặc trải nghiệm hết những cảm giác của người khác, và tất cả chúng ta đều có những niềm đam mê đặc biệt của bản thân mà từ đó khiến chúng ta thích thú. Một vài người, lấy ví dụ, họ có được cảm giác hài lòng từ việc kiếm tiền hay là đạt được thành công, trong khi với những người khác, sức khỏe và gia đình thì quan trọng hơn cả. Đồng thời, một loạt các cảm xúc khác, từ phấn khích đến thanh thản, có thể được liên kết với ý tưởng hạnh phúc, và vì thế cùng một người có thể cảm nhận hạnh phúc theo nhiều cách khác nhau. Although it seems almost impossible to give a precise definition of happiness, most people would agree that there are some basic preconditions to achieving it. Firstly, it is hard for a person to be happy if he or she does not have a safe place to live and enough food to eat. Our basic survival needs must surely be met before we can lead a pleasant life. Secondly, the greatest joy in life is usually found in shared experiences with family and friends, and it is rare to find a person who is content to live in complete isolation. Other key factors could be individual freedom and a sense of purpose in life. Mặc dù không thể đưa ra một định nghĩa chính xác về hạnh phúc, nhưng hầu hết mọi người đều đồng ý rằng có một số điều kiện cơ bản để có được nó. Đầu tiên, thật khó để một người có thể hạnh phúc nếu anh ấy hoặc cô ấy không có một nơi an toàn để sống và có đủ thực phẩm để ăn. Những nhu cầu sinh tồn cơ bản của chúng ta chắc chắn phải được đáp ứng trước khi chúng ta tiến tới một cuộc sống thoải mái. Thứ hai là, niềm vui tuyệt vời nhất trong cuộc sống thường được tìm thấy trong việc chia sẻ những trải nghiệm cùng với gia đình và bạn bè, và rất hiếm khi tìm thấy một người mà họ hài lòng khi sống trong sự cô lập hoàn toàn. Những yếu tố quan trọng khác có thể là sự tự do cá nhân và lý tưởng sống (mục đích sống). In conclusion, happiness is difficult to define because it is particular to each individual, but I believe that our basic needs for shelter, food and company need to be fulfilled before we can experience it. Tóm lại, hạnh phúc thì rất khó để định nghĩa bởi vì nó đặc biệt với mỗi cá nhân, nhưng tôi tin rằng những nhu cầu cơ bản như nơi ở, thức ăn và cộng đồng cần được thực hiện trước khi chúng ta có thể tận hưởng nó (hạnh phúc). Dịch bởi Nguyễn Thị Ngọc Trâm 15. 'minority languages' essay
|
Còn tiếp….! |
IELTS THƯ ĐẶNG CHÚC BẠN THI TỐT!